Can thiệp động mạch vành qua da là gì? Các công bố khoa học về Can thiệp động mạch vành qua da
Can thiệp động mạch vành qua da, được gọi bằng cụm từ tiếng Anh là percutaneous coronary intervention (PCI), là một phương pháp điều trị bệnh tim mạch để mở rộn...
Can thiệp động mạch vành qua da, được gọi bằng cụm từ tiếng Anh là percutaneous coronary intervention (PCI), là một phương pháp điều trị bệnh tim mạch để mở rộng vành và tái cung cấp lưu lượng máu đến trái tim bằng cách sử dụng một ống thông mạch máu mỏng (ống stent) được đặt vào các động mạch vành bị tắc nghẽn hoặc hẹp. Quá trình này được thực hiện thông qua da, không cần phẫu thuật mở ngực, và thường được thực hiện bằng cách chèn một ống nhỏ (cổng nhập) qua tay, cổ chân hoặc đùi. Can thiệp động mạch vành qua da được sử dụng để điều trị cơn đau thắt ngực không ổn định, hỗn loạn nhịp tim, hoặc tăng nguy cơ bệnh nhân trên 1 năm.
Khi người bệnh được chuẩn đoán bị tắc nghẽn hoặc hẹp các động mạch vành, bác sĩ có thể quyết định thực hiện can thiệp động mạch vành qua da (PCI) để điều trị tình trạng này. Quá trình này được thực hiện trong phòng mổ hay phòng cấp cứu và có thể mất từ 30 phút đến 2 giờ tùy thuộc vào tình trạng của mỗi bệnh nhân.
Dưới đây là quá trình chi tiết của can thiệp động mạch vành qua da:
1. Chuẩn bị: Bệnh nhân phải được chuẩn bị trước quá trình can thiệp, bao gồm kiểm tra y tế, xét nghiệm máu, chụp X-quang tim và chuẩn bị tâm lý. Bệnh nhân sẽ được yêu cầu không ăn uống từ 6 đến 8 giờ trước khi thực hiện quá trình này.
2. Tê cục bộ: Bệnh nhân sẽ được tiêm thuốc tê cục bộ để đảm bảo không có đau hoặc khó chịu trong quá trình can thiệp. Thường là tiêm thuốc tê qua tĩnh mạch ở tay hoặc cổ chân.
3. Tiếp cận mạch máu: Người bệnh sẽ được dẫn tới phòng can thiệp và nằm trên một cái bàn mổ. Bác sĩ sẽ tiến hành tiếp cận đến động mạch thông qua da thông qua cắt một đường nhỏ ở tay, cổ chân hoặc đùi. Đôi khi, một ống mở rộng nhỏ được chèn vào động mạch để giữ không gian cho các dụng cụ cần thiết.
4. Cân nhắc xem cần thực hiện thủ thuật hoàn toàn hay không: Trong quá trình can thiệp, bác sĩ có thể tiến hành thủ thuật xử lý như mở rộng các động mạch bằng một baloong, chèn một ống stent hoặc thậm chí thực hiện một đòn điện để giảm các cục máu đông.
5. Theo dõi và phục hồi: Sau khi can thiệp hoàn tất, bệnh nhân thường được quan sát trong một khoảng thời gian ngắn để đảm bảo không có biến chứng nghiêm trọng. Sau đó, bệnh nhân sẽ được chuyển đến phòng hạ tầng và theo dõi thêm để đảm bảo tình trạng ổn định.
Quá trình can thiệp động mạch vành qua da thường được xem là an toàn và có hiệu quả trong việc điều trị các vấn đề liên quan đến tim mạch. Tuy nhiên, như mọi thủ thuật y khoa, cần thiết phải có sự chuẩn bị cẩn thận và theo dõi kỹ lưỡng để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "can thiệp động mạch vành qua da":
Các biện pháp tổng hợp kết hợp dữ liệu nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về kết quả của bệnh nhân. Mặc dù các biện pháp tổng hợp là công cụ hữu ích để đánh giá kết quả sau can thiệp, nhưng quan điểm của bệnh nhân thường bị thiếu. Mục đích của nghiên cứu này là phát triển một thước đo tổng hợp cho một cơ sở dữ liệu kết quả tim mạch đã được thiết lập, bằng cách kết hợp kết quả lâm sàng sau các can thiệp động mạch vành qua da (PCI) với một thước đo kết quả do bệnh nhân báo cáo (PROM) được phát triển đặc biệt cho nhóm bệnh nhân này (MC-PROM).
Hai nghiên cứu đã được thực hiện. Nghiên cứu 1: Các bệnh nhân thực hiện PCI tại một trong ba bệnh viện tham gia đăng ký đã hoàn thành thước đo MC-PROM gồm 5 mục. Dữ liệu về kết quả lâm sàng của bệnh nhân (ví dụ: tử vong, nhồi máu cơ tim, tái tưới máu, sự kiện chảy máu mới) đã được thu thập sau 30 ngày can thiệp như một phần của quá trình thu thập dữ liệu thường xuyên cho đăng ký tim mạch. Phân tích nhân tố khám phá dữ liệu kết quả lâm sàng và dữ liệu MC-PROM đã được thực hiện để xác định số lượng cấu trúc tối thiểu cần được đưa vào một thước đo tổng hợp. Nghiên cứu 2: Các chuyên gia lâm sàng đã tham gia vào một kỹ thuật Delphi, bao gồm ba vòng khảo sát trực tuyến, để xác định các kết quả lâm sàng cần được đưa vào và trọng số của các kết quả lâm sàng cũng như điểm MC-PROM cho thước đo tổng hợp.
Nghiên cứu 1: Các kết quả lâm sàng thường quy và dữ liệu MC-PROM đã được thu thập từ 266 bệnh nhân sau 30 ngày PCI. Điểm MC-PROM không có mối tương quan đáng kể với bất kỳ kết quả lâm sàng nào.
Nghiên cứu 2: Có một cách tiếp cận tương đối nhất quán về việc trọng số các kết quả lâm sàng và các mục của MC-PROM từ ban cố vấn chuyên gia (
Một điểm số tổng hợp cấp độ bệnh nhân duy nhất, kết hợp các kết quả lâm sàng được trọng số và một PROM đã được phát triển. Điểm số tổng hợp này cung cấp một thước đo báo cáo toàn diện hơn về sự khỏe mạnh của từng bệnh nhân sau 30 ngày thực hiện PCI, và có thể hỗ trợ cho các bác sĩ lâm sàng trong việc đánh giá và giải quyết thêm các yếu tố cấp độ bệnh nhân có thể ảnh hưởng đến việc phục hồi lâm sàng.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6